Adjustment of Status là điều chỉnh tình trạng di trú sang thành thường trú nhân khi đương sự có mặt tại Hoa Kỳ. Để được nộp đơn xin chuyển đổi tình trạng di trú, đương đơn phải có một hồ sơ bảo lãnh nào đó như hồ sơ bảo lãnh thân nhân, hồ sơ bảo lãnh nghề nghiệp, hồ sơ đầu tư…
Điển hình là du học sinh (diện visa F-1) đi học ở Hoa Kỳ và sau một thời gian đi học người du học sinh đó gặp người vợ hoặc chồng tương lai của mình. Sau một thời gian tìm hiểu nhau, hai người đi đến hôn nhân. Người phối ngẫu làm đơn bảo lãnh và người du học sinh làm đơn Adjustment of Status để xin thẻ xanh tại Hoa Kỳ. Một điển hình khác là đương đơn nhập cảnh Hoa Kỳ để đi du lịch (diện visa B-2) hoặc đi thăm viếng thị trường (diện visa B-1). Và đương đơn có người thân của mình làm đơn bảo lãnh và đương đơn làm đơn Adjustment of Status để xin thẻ xanh tại Hoa Kỳ.
Vấn đề quan trọng nhất trong hồ sơ Adjustment of Status là giai đoạn phỏng vấn. Thủ tục phỏng vấn trong hồ sơ Adjustment of Status là để Sở Di Trú USCIS quyết định sự liên hệ gia đình có chân thật hay không và đương đơn có lọt vào một trong những điều luật cấm nhập cảnh hay không.
Vấn đề liên hệ gia đình có chân thật hay không, Sở Di Trú USCIS sẽ quyết định hôn nhân của hai người là thật hay giả. Điển hình là cặp vợ chồng mới quen biết hoặc gặp mặt nhau được ba tháng và hai người đã quyết định đi đến hôn nhân. Chúng tôi không nói là trường hợp hai người đi đến hôn nhân trong một thời gian quá ngắn ngủi là hôn nhân giả. Nhưng trường hợp đó xảy ra rất hiếm.
Chúng tôi thường khuyên họ là nên tìm hiểu nhau một thời gian nữa và nếu hai người vẫn quyết định đi đến hôn nhân thì văn phòng chúng tôi sẵn sàng giúp. Vì chúng tôi không muốn hồ sơ bị lọt vào tình trạng điều tra và hồ sơ có thể bị kéo dài đến hai năm hoặc lâu hơn.
Ngoài việc xem xét sự liên hệ giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh, Sở Di Trú USCIS phải quyết định đương đơn có lọt vào một trong những điều luật cấm nhập cảnh hay không. Tất cả những người làm đơn xin thị thực dù là thị thực để xin du lịch, du học, xin chiếu khán di dân, hoặc làm Adjustment of Status điều bị lệ thuộc vào Điều Luật 212 Inadmissibility Grounds (tức là điều luật cấm nhập cảnh).
Có nhiều trường hợp đương đơn bị ghép vào tội gian lận vì họ đã dùng thị thực B-1/B-2 nhập cảnh Hoa Kỳ để rồi cưới người phối ngẫu của mình và làm thẻ xanh tại Hoa Kỳ. Sở Di Trú USCIS quyết định rằng đương đơn nói dối với sĩ quan của Cơ Quan Quan Thuế và Biên Phòng CBP tại phi trường là đương đơn nhập cảnh Hoa Kỳ với lý do là du lịch nhưng ý định thật sự của đương đơn là lập hôn thú để ở lại Hoa Kỳ. Trường hợp khác là đương đơn khai gian trong đơn thị thực với tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ để được thị thực nhập cảnh Hoa Kỳ như khai có gia đình trong khi đã ly dị hoặc độc thân.
Khi đương đơn bị lọt vào một trong những điều luật cấm nhập cảnh, thì Sở Di Trú sẽ yêu cầu đương đơn nộp mẫu đơn I-601 để xin miễn điều luật cấm nhập cảnh nếu đương đơn hội đủ điều kiện để xin miễn. Đương đơn hội đủ điều kiện để nộp đơn xin miễn điều luật cấm nhập cảnh không có nghĩa Sở Di Trú sẽ chấp thuận đơn I-601 mà chỉ là Sở Di Trú nhận hồ sơ để xét duyệt đơn I-601 có đáng được chấp thuận hay không.
Theo yêu cầu của quý khách, sau đây là bản thông tin chiếu khán cho Tháng
Giêng, 2023.
Ưu tiên 1 – priority date là ngày 1 Tháng Mười Hai, 2014, tức là ưu tiên được
dành cho những người con trên 21 tuổi chưa có gia đình của công dân Hoa Kỳ.
Ưu tiên 2A – priority date là hiện hành, tức là ưu tiên được dành cho vợ, chồng,
hoặc con độc thân dưới 21 tuổi của thường trú nhân.
Ưu tiên 2B – priority date là ngày 22 Tháng Chín, 2015, tức là ưu tiên được
dành cho con độc thân trên 21 tuổi của thường trú nhân.
Ưu tiên 3 – priority date là ngày 22 Tháng Mười Một, 2008, tức là ưu tiên được
dành cho con đã có gia đình của công dân Hoa Kỳ.
Ưu tiên 4 – priority date là ngày 22 Tháng Ba, 2007, tức là ưu tiên được dành
cho anh, chị hoặc em của công dân Hoa Kỳ.
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.